I. Lời ngõ
Nghiên cứu khoa học (NCKH) chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống con người nói chung và trong các hoạt động học thuật, tư duy trong môi trường giáo dục nói riêng. Chính vì lý do đó, hoạt động NCKH tại Việt Nam, và đặc biệt là tại các khoa Kỹ Thuật Xây Dựng trường đại học Kỹ thuật – Công nghệ Cần Thơ đặc được chú trọng và khuyến khích phát triển đặc biệt.
Khoản 2 điều 28 Luật Giáo dục Đại học năm 2012 quy định một trong các nhiệm vụ và quyềnhạn của trường cao đẳng, trường đại học, học viện là “triển khai hoạt động đào tạo, khoa học vàcông nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học.”
Bên cạnh đó, Khoản 2 điều 55 của Luật này cũng quy định “Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ,bảo đảm chất lượng đào tạo” là một nhiệm vụ quan trọng của Giảng viên trường đại học. Tuy nhiên, đối tượng của hoạt động Khoa học công nghệ trong nhà trường đại học không chỉ bao gồm giảng viên và các nhà khoa học khác, mà còn có cả sinh viên (SV) thuộc các loại hình đào tạo đang theo học tại khoa Kỹ Thuật Xây Dựng trường đại học Kỹ thuật – Công nghệ Cần Thơ.
Điều này thể hiện qua mục tiêu “hình thành và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho người học” mà hoạt động Khoa học Công nghệ của nhà trường hướng tới (Điều 39, Khoản 2, Luật Giáo dục Đại học).
Trong những năm gần đây, hoạt động NCKH trong SV tại khoa Kỹ Thuật Xây Dựng trường đại học Kỹ thuật – Công nghệ Cần Thơ được chú trọng đầu tư nhiều hơn. Số lượng đề tài nộp tham gia các giải thưởng do Thành ĐoànThành phố Hồ Chí Minh phát động, … tăng cao và được chú trọng phát triển.
II. Thành quả
- Lợi ích của NCKH đối với SV
Với chính sách khuyến khích SV tham gia NCKH ở các trường như hiện nay, có thể nói SV nhận được khá nhiều lợi ích từ hoạt động này. Các lợi ích tiêu biểu có thể tập hợp lại thành hai nhóm chính.
Thứ nhất, phải kể đến sự gia tăng đáng kể về kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu. Tham gia NCKH đòi hỏi người nghiên cứu phải không ngừng bổ sung, hoàn thiện kiến thức của mình, do đó việc tìm kiếm và đọc thêm các tài liệu bổ trợ là cần thiết.Thông qua điều này, kỹ năng nghiên cứu cũng như kiến thức phục vụ cho đề tài củacác bạn SV sẽ tăng lên. Thêm vào đó, SV có cơ hội được làm việc cùng với Giảng viên hướng dẫn (GVHD) nên sẽ được định hướng và chỉ dẫn thấu đáo hơn đối vớicác vấn đề nghiên cứu.
Thứ hai, hoạt động NCKH giúp SV tăng cường các kỹ năng bổ trợ cần thiết cho công việc cuộc sống sau này như: kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng quản lýthời gian, làm việc nhóm, các kỹ thuật tin học, … trong đó quan trọng nhất làkhả năng tư duy phản biện độc lập, sáng tạo, nhìn các sự vật, sự việc ở nhiềukhía cạnh khác nhau để có cách hiểu toàn diện nhất.
- Các thành quả nghiên cứu của SV tại khoa Kỹ Thuật Xây Dựng trường đại học Kỹ thuật – Công nghệ Cần Thơ
III. Lời kết
Hoạt động NCKH mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho sự phát triển của đời sống xã hội và đất nước. Thực tế vẫn còn có nhiều rào cản từ nhiều phía đối với hoạt động này, và điều đó cũng đã làm nản lòng không ít các nhà nghiên cứu, giảng viên và sinh viên. Mặc dù vậy, sức mạnh và ý chí nội tại giữ vai trò quan trọng. Thông qua một ít chia sẻ này, tác giả hy vọng các bạn SV vẫn có duy trì chút “lửa” cho NCKH giữa cuộc sống, công việc và việc học với rất nhiều lo toan. Hy vọng rằng NCKH trong SV sẽ tiếp tục một mảng sáng trên bức tranh NCKH của Việt Nam ta trong thế kỷ XXI này.